Bác Hồ luôn gần gũi với Nhân dân, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Ảnh: tư liệu

Ở mọi triều đại, Nhân dân là một nhân tố căn bản tạo nên nền móng và sức sống trường tồn của quốc gia, dân tộc. Khi được gọi là một nước, thì phải có Nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba điều đó, đều không đủ tư cách làm một nước. Trong ba điều đó, thì Nhân dân là quan trọng nhất. Không có Nhân dân, thì đất đai không thể còn, chủ quyền không thể lập; Nhân dân còn, thì nước còn; Nhân dân mất, thì nước mất.

“Nghìn muôn ức triệu người trong nước/Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà/Người, Dân ta, của, Dân ta/Dân là Dân nước, nước là Nước Dân…/Sông phía Bắc, bể phương Đông/Nếu không Dân cũng là không có gì”.

Nhân dân là cội rễ của mọi thể chế, là nhân tố căn bản quyết định làm nên quốc gia, sức mạnh vô địch và trường tồn của Dân tộc.

Nhân dân là cội rễ của mọi thể chế, là nhân tố căn bản quyết định làm nên quốc gia, sức mạnh vô địch và trường tồn của Dân tộc. Thể chế nào giữ được Lòng Dân, thể chế ấy giữ yên thiên hạ! Không lực lượng nào to lớn và vô địch bằng Lòng Dân. “Chúng chí thành thành” vô địch! “Mưu sự tại nhân” và “Thành sự bởi tại nhân” là riềng mối tinh thần và tư tưởng dẫn dắt Dân tộc Việt Nam vượt qua chính mình, vượt lên thời gian, khi tiến, khi thoái, biến thời thành thế, nhân lên sức mạnh quốc gia. Nhân dân bước qua mọi cái chết của 13 cuộc đại chiến vệ quốc trải suốt mấy ngàn năm để tồn tại, phát triển và khẳng định một nước Việt Nam trước hoàn cầu.

Nhân dân là Quốc bảo! Lòng Dân chính là Bảo vật Quốc gia – chủ nhân tôn quý nhất của Đất nước, tài sản lớn nhất của Quốc gia!

Lật xem lại lịch sử, ai đánh mất Quốc bảo ấy, là tự chuốc lấy tội sát thân, không tránh khỏi họa mất nước và thể chế tan tành. Chẳng hạn, nhà Hồ (1400 – 1407) phạm điều cấm kỵ ấy, nên nỗi kinh sợ “Lòng Dân không theo” thành hiện thực, khiến toàn bộ vương gia phải tự trói mình nộp giặc trước khi đất nước bị giặc Minh xâm chiếm và vương triều Hồ sụp đổ. Mất Dân thì mất nước. Vương triều thì nhất thời, Quốc Dân thì vạn đại!

Quốc gia thịnh suy, đất nước còn mất ở khắp mọi thời, há chẳng phải do Dân định đoạt đó sao?

Từ gần 800 năm trước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn từng dặn dò: “Khoan thư sức Dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Và, lòng tụng Dân ấy cũng từng đau đáu tâm khảm của Nguyễn Trãi, dù cách nay ngót sáu trăm bốn chục năm, từ sự chiêm nghiệm thành bại của lịch sử với sức mạnh Lòng Dân, đang vằng vặc giữa hôm nay: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (Làm lật thuyền mới biết sức Dân mạnh như nước); “Việc nhân nghĩa cốt ở yên Dân”; “Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách/Chăn Dân mã nỡ mất Lòng Dân”.

Quốc gia mất hay còn, Đất nước thành hay bại, Dân tộc hùng cường hay bạc nhược… rõ ràng muôn sự ấy ở tại chính Nhân dân.

Do thế, trong trời đất, không gì quý bằng Nhân dân; trong nước Việt Nam, thì địa vị cao nhất là Dân, Dân là quý nhất, lực lượng Nhân dân là mạnh nhất. Đó là cái gốc của Quốc gia. Ý Dân, Lòng Dân, Sức Dân như bức tường thành của Quốc gia!

Quốc gia ấy là Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, với người chủ là Quốc dân Việt Nam, gồm 54 dân tộc anh em sinh ra từ một bọc trứng Mẹ Âu Cơ vĩ đại.

*

*    *

Phát triển trên nền móng vững chãi ấy, Việt Nam đã, đang và tiếp tục như thế: “Nước lấy Dân làm gốc… Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”.

Vận nước nảy nở từ Lòng Dân!

Nhớ những năm 1930 – 1931, khi ấy, giữa gông xiềng nô lệ thực dân và vòng phong kiến cương tỏa, kẻ thù các loại vây bủa, âm mưu bóp chết Đảng. Nhưng, chỉ mới đầy 7 tháng tuổi, Đảng cùng Nhân dân làm một cuộc duyệt binh lịch sử

Xô-viết Nghệ – Tĩnh, báo hiệu rằng, Đất nước nhất định cập bến độc lập, Nhân dân nhất định tới ngày tới bờ tự do!

Cuộc duyệt binh cách mạng lịch sử ấy, dưới ngọn cờ của Đảng, với bao nhiêu xương trắng máu đào của hàng trăm cuộc khởi nghĩa của bậc tiền nhân yêu nước thương nòi và đồng bào đổ xuống: từ Phong trào Cần Vương hơn 10 năm (1885 – 1896); các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; các cuộc đấu tranh của Nhân dân trung du miền núi: khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 – 1913) tới khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng chỉ huy; khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 – 1889) do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 – 1889) của Nguyễn Quang Bích và phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo…

Nó kết tinh và nâng lên tầm cao mới, với chất lượng mới về khát vọng độc lập của các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào Nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của Nhân dân, quy tụ, đoàn kết Nhân dân chống xâm lược.

Còn Nhân dân ắt Dân tộc sẽ có ngày lấy lại Quốc gia, dù có rửa bằng máu!

Trong phận sự là một “đứa con nòi” của Dân tộc, chỉ riêng trong cấp Trung ương của Đảng, có 14 người bị đế quốc Pháp bắn, chém, hoặc đập chết trong nhà tù… Trong 31 Ủy viên Trung ương Đảng ta, trước ngày khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đế quốc Pháp kịp “tặng” cho 222 năm tù đày. Máu của những người con ưu tú của Dân tộc nhuộm đỏ thắm đất đai sông núi: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần… và hàng ngàn chiến sỹ cách mạng, hàng vạn đồng bào ta gan góc hy sinh vì lý tưởng độc lập, tự do của Tổ quốc!

Vì, không có con đường nào khác, sự hy sinh vì Tổ quốc không cần đến, thậm chí bẻ gãy mọi điều luật, hơn nữa lại là những điều luật thực dân cổ xúy và bảo vệ cho sự tự do chém giết. Tất cả sự hy sinh của các bậc tiền nhân và đồng bào ta hiến dâng cho sự thiêng liêng và cao cả hơn hết thảy, là Tổ quốc phải độc lập, là Nhân dân Việt Nam phải tự do, đã làm kẻ thù run sợ và khuất phục mọi điều luật thực dân!

Khát vọng Lòng Dân Đất nước độc lập làm nên Vận Nước 1945!

Và, 15 tuổi, Đảng cùng Nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Một nền độc lập, tự do Việt Nam thật sự được sinh ra từ máu của Nhân dân và được bảo vệ bằng máu suốt 100 năm của 20 triệu đồng bào, 15 năm của Đảng sinh ra và lớn lên trong lòng Dân tộc. Đó là thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt Nam, mà cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở một nước thuộc địa. Đó là một bước đi ngắn của cách mạng, nhưng là bước tiến dài của Dân tộc Việt Nam, từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”, có ý nghĩa quyết định sứ mệnh của Đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa thế kỷ XX.

Khát vọng Lòng Dân Tổ quốc thống nhất hun đúc nên Vận Nước 1975!

Bằng sức mạnh Nhân dân với 31 triệu đồng bào và sức mạnh thời đại, với cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 1975 quét sạch đế quốc Mỹ xâm lăng cùng bè lũ ngụy quyền của chúng và thống nhất nước nhà! Máu đào xương trắng Nhân dân nước Việt, dưới ngọn cờ của Đảng, hồn thiêng sông núi hun đúc chính khí dân tộc “chúng chí thành thành”, anh linh muôn bậc tiền hiền phù hộ, nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc đã hoàn thành.

Tổ quốc từ năm 1975 ấy hoàn toàn thống nhất, sự nghiệp phát triển thống nhất Đất nước đặt trên vai Nhân dân. Và, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 37 năm đổi mới, tròn 100 triệu đồng bào, dưới ngọn cờ của Đảng, Đất nước vượt qua mọi thách thức hiểm nghèo, tranh thủ mọi thời cơ, nhân lên những thuận lợi, đổi mới và phát triển toàn diện, đồng bộ, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử.

Khi muôn Dân ủng hộ, không ai cản nổi, khi Lòng Dân xác quyết sự nghiệp cách mạng của chúng ta, dưới ngọn cờ của Đảng, sao chẳng tất thành!

Chân lý đó của muôn thời đang vằng vặc tỏa sáng.

*

*    *

Bước vào năm thứ 23 của thế kỷ XXI, năm nay tròn 48 năm, kể từ ngày 30/4/1975, trên vị thế một nước Việt Nam thống nhất, chúng ta mở tầm nhìn đến năm 2050, trước mắt đến năm 2030, xứng đáng là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Cơ Trời – Vận Nước và Lòng Dân đang dồn tụ, kết tinh và tỏa sáng vươn tới bến bờ Tổ quốc hùng cường!

Hoặc ngay từ lúc này, hoặc khó có thể bao giờ, nếu Việt Nam không muốn và không thể lẽo đẽo đi theo sau người khác trong cuộc hội nhập toàn cầu!

Nhớ lại khi Cơ Trời và Lòng Dân đã làm nên Vận Nước Việt Nam độc lập, tự do ngày 2/9/1945, thì ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng nếu nước được độc lập mà Dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Đó chính là mục tiêu cao cả, nhưng đó cũng chính là thách thức để vun đắp Lòng Dân, để tiếp tục tạo nên Thế Nước mới mẻ, vững vàng vươn tới thịnh vượng, đồng hành cùng thời đại.

Nhân dân là toàn thể đồng bào dù ở trong nước hay ở nước ngoài của nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Nhân dân là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ra sức phụng sự. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện của hạnh phúc, tự do, là mục tiêu nền tảng để mỗi một người Dân đạt tới hạnh phúc, tự do.

Nhân dân là toàn thể đồng bào dù ở trong nước hay ở nước ngoài của nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Nhân dân là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ra sức phụng sự. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện của hạnh phúc, tự do, là mục tiêu nền tảng để mỗi một người Dân đạt tới hạnh phúc, tự do. Độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc là để cho Nhân dân ta hưởng hạnh phúc, Nhân dân ta được hoàn toàn tự do – một phẩm giá Dân tộc cao cả và thiêng liêng nhất.

Chính nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là nhân tố quyết định, là động lực khởi phát sự nghiệp Việt Nam hùng cường.

Bởi, vấn đề mấu chốt và tiên quyết ở chỗ, muốn biết Nhân dân còn mất thế nào, thì xem cái quyền của Nhân dân còn mất thế nào. Dân quyền mà được đề cao, thì Nhân dân được tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ, thì dân bị coi khinh, mà nước yếu. Dân quyền hoàn toàn mất, thì Dân mất mà nước cũng mất. Dân mất, tức là có Dân cũng như không có Dân vậy. Nhân dân có quyền được hưởng tất cả lợi ích vật chất và tinh thần. Đó chính là cái quyền tự nhiên và chính trị, xã hội vô giá của Nhân dân.

Vì thế, lúc này, hơn bao giờ hết, phải nâng đỡ và bảo vệ bằng mọi giá Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong đổi mới, xây dựng và giữ gìn Đất nước. Nhân dân có quyền góp phần quyết định việc xây dựng và đảm bảo tính đúng đắn của đường lối cách mạng. Nhân dân có quyền cung cấp tài lực, vật lực đảm bảo yêu cầu nền tảng vật chất để sự nghiệp cách mạng được thực hiện thắng lợi; có quyền đòi hỏi kiểm soát và trừng phạt tất cả những gì làm hại Tổ quốc, làm hại Đảng, Nhà nước và cố nhiên làm hại Nhân dân… Thêm một lần nữa khẳng định rằng, tất cả quyền và trách nhiệm của Nhân dân đều phải được nâng niu và bảo vệ vô điều kiện, vì nền độc lập, tự do và thống nhất vững bền của Tổ quốc, vì sự trường tồn của Dân tộc và vì chính sự lớn mạnh của Nhân dân.

Đó chính là cái gốc nước để bảo vệ nền độc lập dân tộc chân chính và sự toàn vẹn thống nhất của Tổ quốc, là cái căn bản để thực hiện quyền tự quyết dân tộc thiêng liêng; và, đến lượt mình, Nhân dân hưởng quyền phát triển thật sự và chân chính, là cái động lực để phát triển Quốc gia. Chỉ có như vậy, mới xây dựng nước ta thật sự là một nước dân chủ, tự cường, xứng đáng với Nhân dân. Do thế, phát triển Nhân dân và Tổ quốc thịnh vượng phải là cương lĩnh hành động tối thượng thiêng liêng và mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước.

Đó là Lòng Dân khao khát đang kết tụ thành Vận nước hùng cường đương lên hiện nay.

Đó chính là danh dự và uy tín Việt Nam!

Vì thế, lúc này, hơn bao giờ hết, là một Đảng cầm quyền, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trong mọi công việc, Đảng và Nhà nước, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết luôn nhớ rằng: “Ý Dân là ý trời”. Khi xác định “Dân là gốc” thì “đừng có làm điều gì trái ý Dân”. “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”.

Và, khi coi Dân là chủ, là gốc, thì Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên phải phục vụ Nhân dân, học hỏi Nhân dân.

“Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là Nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào – đều phải là người đày tớ trung thành của Nhân dân”, là “đứa con nòi của giai cấp lao động” được Nhân dân ủy thác công việc dẫn dắt Dân tộc, nên rất không thể mang đầu óc của những “ông tướng bà tướng”, càng không được phép phụ trách ở vùng nào cũng như những “ông vua con”, mà luôn ghi lòng tạc dạ “lãnh đạo là làm đày tớ Nhân dân và phải làm cho tốt”.

Hơn nữa, “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đày tớ cho quần chúng… Xa quần chúng là hỏng, cần phải nhớ nhiệm vụ của Đảng là làm đày tớ cho quần chúng”. Muốn thế, rất cần tự mình phải chính đáng, phải trong sạch, lại phải biết “Đem tài Dân, sức Dân, của Dân làm lợi cho Dân”. Đó là bổn phận tự nhiên và đạo lý thiêng liêng của một người lãnh đạo, của một “đứa con nòi”!

Khi Đảng và Nhà nước “lấy Dân làm gốc”, phải hoàn thành trách nhiệm, bổn phận với Dân, không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhân dân, mà sâu xa hơn là thành tâm tin Dân, trọng Dân, gần Dân, hiểu Dân, bàn bạc với Dân, học hỏi Dân, gương mẫu và  hết sức làm lợi cho Dân.

Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là nhân tố quyết định, là động lực khởi phát sự nghiệp Việt Nam hùng cường. Trong ảnh: Không khí chào đón ngày 30/4 – 1/5 trên một tuyến phố ở TP.HCM. Ảnh: Lê Toàn

Và, để phụng sự thật tốt Nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải “theo đúng đường lối Nhân dân”: “Đặt lợi ích Nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; việc gì cũng bàn với Nhân dân, giải thích cho Nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước Nhân dân, và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi Nhân dân; tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để Nhân dân noi theo”. “Đối với Dân ta đừng có làm điều gì trái ý Dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”, phải tự mình trong sạch, tự mình liêm chính, tự mình noi gương Nhân dân. Nếu “không học hỏi Nhân dân thì không lãnh đạo được Dân. Có biết làm học trò Dân, mới làm được thầy học Dân”. Tất cả phải phục vụ Nhân dân: nâng cao Dân trí, chăm lo Dân khí, bảo vệ Dân quyền, nâng niu Dân nguyện, phụng sự Dân sinh, đem lại hạnh phúc cho Nhân dân.

Đó là cội nguồn bền vững của độc lập dân tộc, của Tổ quốc thống nhất vững bền; là bảo vệ lợi ích cao nhất của Đất nước, tư cách của Dân tộc và Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ gốc và bền vững.

Không có Nhân dân không thành Dân tộc, Tổ quốc chúng ta không có gì cả!

Vì thế, lúc này, hơn lúc nào hết, khi “Dân phàn nàn, oán thán nhiều hơn lời khen”, để “muốn cho Dân yêu, muốn được lòng Dân, việc gì có lợi cho Dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho Dân phải hết sức tránh… Muốn được Dân yêu, muốn được lòng Dân, trước hết phải yêu Dân, phải đặt quyền lợi của Dân trên hết thảy” một cách thật trong sáng và thật thành tâm. Nghĩa là, yêu Dân, vì Dân và đặt quyền lợi của Dân trên hết thảy.

Những quyết sách của Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII càng đòi hỏi sự tham gia thực thi của Nhân dân chống tham nhũng, tiêu cực, vì sự sinh tử của chế độ, sự mất còn của Đảng và sự hưng suy của Tổ quốc. Thành bại một phần căn bản nằm ở chính Nhân dân. “Làm đúng ý nguyện của Dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của Dân thì ắt bại”.

Mỗi cấp bộ đảng, từng cấp chính quyền, mỗi cán bộ, đảng viên thật sự thực hành “dĩ công vi thượng”, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, vì Nhân dân phụng sự, vì danh dự

Việt Nam và vì danh dự chính mình, chứ không phải “chiếm công vi tư”, phù hoa xa xỉ, sa vào suy thoái, hủ bại, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí “đè đầu cưỡi cổ Nhân dân”, là “phản lại Tổ quốc”.

Chớ làm mất lòng Dân! Trái thế, là thất bại. Những ai nhân danh Nhân dân để mị Dân, “theo đuôi” Dân, lôi kéo Dân, thậm chí để kích động Nhân dân gây rối xã hội để cốt mưu lợi ích đen tối cho mình, cho phe nhóm… thì chính là dân túy, là cơ hội, dứt khoát phải lên án và kiên quyết phải tẩy trừ. Đó chính là sự đánh cắp lòng tin chân chính và trong sáng của Nhân dân, là phá hoại Đất nước, chống lại Nhân dân, dứt khoát phải bị nghiêm khắc trừng phạt!

Sức Dân, lòng Dân đoàn kết là lực lượng to lớn và vô địch dựng nên Thế nước vững bền! Đó là chân lý muôn đời!

Và vì thế, lúc này, hơn lúc nào hết, để giữ vững nền độc lập, tự do của Đất nước, sự toàn vẹn lãnh thổ thống nhất của Tổ quốc, ngăn ngừa ngoại bang lăm le dòm ngó và đe dọa, càng phải cảnh giới và nhớ rằng: “Lúc nào Dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào Dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và, khi “ta được lòng Dân thì ta không sợ gì cả”.

Lòng Dân đồng thuận – Thế Nước vững bền – Dân tộc trường tồn – Quốc gia phồn thịnh!